MY' HISTORY ...

Sống - khát vọng để thấy đời mênh mông hơn!

MY'S HISTORY ...

Sống - khát vọng để thấy đời mênh mông hơn!

MY'S HISTORY ...

Sống - khát vọng để thấy đời mênh mông hơn!

MY'S HISTORY

Sống - khát vọng để thấy đời mênh mông hơn!

MY'S HISTORY

Sống - khát vọng để thấy đời mênh mông hơn!

23 thg 5, 2010

Phương pháp tư duy sáu chiếc mũ (Six Thinking Hats)

Là một kĩ thuật được thiết kế nhằm giúp các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được. Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ định hướng (lateral thinking). Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ đứng riêng của nó nhưng các phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là thường thấy lối suy nghĩ thông thường.

Six thinking Hats được dùng để

- Kích thích suy nghĩ song song
- Kích thích suy nghĩ toàn diện
- Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến ...) và chất lượng

Lịch Sử cuả Phương Pháp

Đây là phát kiến cuả Tiến sĩ Edward de Bono ( http://www.edwdebono.com/ ) trong năm 1980. Năm 1985 nó đã được mô tả chi tiết trong cuốn "Six Thinking Hats" cuả de Bono.
Phương pháp này đã được phát triễn va giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều tổ chức lớn như là IBM, Federal Express, Brtish Airways, Pepsi, Polaroid, Prudential, Dupont, ...cũng dùng phương pháp này.

Cách thức tiến hành (Bạn nên xem thêm phần ví dụ để có một hình dung cụ thể về nó)

Dùng 6 cái nón đại diện cho 6 dạng thức cuả suy nghĩ. Nó đề cập đến chiều hướng suy nghĩ hơn là tên gọi. Mỗi nón có một màu (mà màu này chỉ đại diện cho duy nhất 1 dạng thức duy nhất cuả suy nghĩ).

Mọi người đều sẽ tham gia góp ý. Tuỳ theo kiểu ý kiến mà người đó sẽ đề nghị đội nón màu gì.

Các nón không được dùng để phân loại cá nhân mặc dù hành vi hay thói quen cuả cá nhân đó "dường như" hay có vẻ thuộc về loại nào đó. Nó chỉ có tác dụng định hướng suy nghĩ trong khi thành viên trong nhóm cho ý kiến đội lên mà thôi

Các đặc tính cuả nón màu:

Nón trắng: trung tính - tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu cứ liệu và những thứ cần thiết , làm sao để nhận được chúng

Nón Đỏ: Nóng, tình cảm, cảm giác, cảm nhận, trực quan, những ý kiến không có chứng minh hay giải thích, lí lẽ

Nón Đen: Phê phán, Bình luận, Tại sao sự kiện là sai, tất cả những cảm ý tiêu cực hay bi quan

Nón Vàng: Tích cực, lac quan, những cái nhìn sáng lạng, tìm đến những lợi ích, cái gì tốt đẹp

Nón Lục: Sáng tạo, khả năng xảy ra và các giả thuyết, những ý mới

Nón Xanh Dương: Ðiều khiển, chi phối quá trình, các bước, tổ chức lãnh đạo, suy nghĩ về các suy nghĩ hay kết luận


Sau đây là một cách tiến hành qua các bước:

Mọi người trong nhóm làm việc sẽ cùng tham gia góp ý -- tùy theo tính chất cuả ý đó mà người đó (hay người trưởng nhóm) sẽ đề nghị đội nón màu gì. Người trưỏng nhóm sẽ lần lược chia thời gian tập trung ý cho mỗi nón màu... Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt nếu cần bất kì thành viên nào cũng có thể đề nghi góp thêm ý vào cho 1 nón màu nào đó (tuy vậy phải giữ đủ thời lượng cho mỗi nón màu)

Bước 1:

Nón trắng: Tất cả các ý kiến nào chỉ chưá sự thật, bằng chứng, hay dữ kiện, thông tin. Đội nón này có nghiã là "hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh cãi, cởi bỏ mọi dự định và hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu"

Bước 2:

Nón lục: Tạo ra các ý kiến làm sao để giải quyết. Các sáng tạo, các cách thức khác nhau, các kế hoạch, các sự thay đổi

Buớc 3:

- Đánh giá các giá trị cuả các ý kiến trong nón lục
- Viết ra danh mục các lợi ích dùng nón vàng

Nón vàng: Tại sao vài ý kiến sẽ chạy tốt và tại sao nó mang lại lợi ích. Ỏ đây cũng có thể dùng về các kết quả cuả các hành động được đề xuất hay các đề án. Nó còn dùng để tìm ra những vật hay hiệu quả có giá trị cuả những gì đã xãy ra.

- Viết các đánh giá, và các lưu ý trong nón đen

Đây là nón có giá trị nhất. Dùng để chỉ ra tai sao các đề nghị hay ý kiến không thích hợp (hay không hoạt động được) cùng với các dữ kiện, với kinh nghiệm sẵn có, với hệ thống đang hoạt động, hoặc với chế độ đang được theo. Nón đen lúc nào cũng phải tính đến sự hợp lí

Bước 4: Viết các phản ứng, trực giác tự nhiên và các cảm giác xuống.

Nón này cho phép người suy nghĩ đặt xuống các trực cảm mà không cần bào chữa

Bước 5: Tổng kết và kết thúc buổi làm việc

Nón này là sự nhìn lại các bước trên hoặc là quá trình điều khiển. Nó sẽ không nhìn đến đối tượng mà là nghĩ về đối tượng (thí dụ như ý kiến "đội cho tôi cái nón lục, tôi cảm giác rằng có thể làm đươc nhiều hơn về cái nón xanh này")

Khi sếp kể chuyện

Các câu chuyện thường dễ nhớ, do đó dễ lan truyền. Các nhà lãnh đạo có thể khởi đầu bằng một câu chuyện hay và quan sát câu chuyện đó tiếp tục đời sống của nó. Khi đó, nó đã tạo ra được một cộng đồng. Một CEO có những câu chuyện hay và kể chúng có thể tiếp cận với mọi người dễ hơn, kết nối họ và tạo ra một cộng đồng bền vững, hơn bất kỳ người nào tin tưởng hoàn toàn vào các dữ liệu và bảng biểu khô cứng.

Một trong những việc lớn mà các giám đốc điều hành (CEO) phải thực hiện là cổ vũ nhân viên của mình đạt được các mục tiêu đặt ra.


Đưa ra những số liệu, bảng biểu, các bài thuyết trình cứng nhắc minh chứng cho mục tiêu, rất có thể bạn sẽ khiến người nghe ngáp dài. Nhưng kể một câu chuyện hay, bạn sẽ tác động được vào cảm xúc của họ.


Câu chuyện kinh doanh - câu chuyện cuộc đời


Cuộc sống là một chuỗi các câu chuyện đan xen nhau - các câu chuyện của chính chúng ta và của những người sống quanh ta.


Trong kinh doanh, rất nhiều nhà lãnh đạo thành công là những người có tài kể chuyện. Họ luôn lôi kéo chúng ta bằng những câu chuyện, tâm sự về việc họ khởi nghiệp ra sao, đại diện cho cái gì, và đang đi đâu.


Bill Gates luôn kể với chúng ta về giấc mơ đưa máy tính cá nhân đến tất cả các căn nhà của mọi người trên trái đất. Câu chuyện vĩ đại đó đã thôi thúc Steve Ballmer - và có lẽ cả những người khác - bỏ ngang việc học ở trường kinh doanh và gia nhập công ty nhỏ của Gates ở một góc xa xôi hẻo lánh của vùng Tây Bắc nước Mỹ. Thậm chí cả mẹ của Ballmer, người chưa từng nghe câu chuyện này, cũng băn khoăn tại sao mọi người cần có máy tính như vậy.


Rất nhiều giám đốc hàng đầu được đào tạo từ những trường kinh doanh truyền thống, không muốn kể các câu chuyện mà họ cho là vô bổ. Họ kiên quyết đi theo các cách thức chuyên nghiệp và tuân thủ các nguyên tắc ngặt nghèo. Họ đưa ra tầm nhìn, mục tiêu, kết quả và minh chứng bằng những phân tích, những thực tế, những câu nói trích dẫn của những người nổi tiếng. Nhưng có hai vấn đề luôn diễn ra với việc hùng biện kiểu này.


Thứ nhất là người nghe luôn có những phân tích, kinh nghiệm và những câu trích dẫn của riêng họ. Trong khi bạn đang cố thuyết phục họ thì trong đầu họ đã hình thành những lập luận phản bác điều đó. Thứ hai là nếu bạn có thành công trong việc thuyết phục, thì bạn chỉ hoàn thành nhiệm vụ về mặt trí tuệ. Điều này chưa đủ, bởi người ta không chỉ hành động vì lý trí.


Trong khi đó, các câu chuyện hấp dẫn không những hàm chứa một lượng thông tin cần thiết mà còn tác động tới cảm xúc của mọi người, đảm bảo rằng họ không chỉ nghe mà còn lập tức bị cuốn vào câu chuyện và sau đó được thôi thúc thực hiện những hành động được mách bảo bởi con tim.


Một câu chuyện có khả năng đơn giản hóa hiệu quả những vấn đề phức tạp. Nó giúp chúng ta bộc lộ, đánh giá các giả định, các giá trị và lòng tin đằng sau ý tưởng mới và kết nối chúng với thế giới. Vì vậy, nhiệm vụ của một công ty không chỉ là bán được nhiều hơn những cốc cà phê ngon, mà còn chia sẻ nhiệt huyết được hàm chứa trong cốc cà phê đó.


Các câu chuyện thường dễ nhớ, do đó dễ lan truyền. Các nhà lãnh đạo có thể khởi đầu bằng một câu chuyện hay và quan sát câu chuyện đó tiếp tục đời sống của nó. Khi đó, nó đã tạo ra được một cộng đồng. Một CEO có những câu chuyện hay và kể chúng có thể tiếp cận với mọi người dễ hơn, kết nối họ và tạo ra một cộng đồng bền vững, hơn bất kỳ người nào tin tưởng hoàn toàn vào các dữ liệu và bảng biểu khô cứng.


Người kể chuyện... cũng là nhà biên kịch


Để có một câu chuyện hay, đừng kể theo kiểu từ-đầu-đến-cuối. Thay vào đó, cần thể hiện sự đấu tranh giữa kỳ vọng và thực tại khách quan trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Chẳng hạn, hãy tưởng tượng một câu chuyện về công ty công nghệ sinh học mới được xây dựng có tên là Chemcorp. Tổng giám đốc của công ty này đang cố gắng thuyết phục một số ngân hàng rót vốn đầu tư.


Ông có thể nói với các chủ ngân hàng rằng Chemcorp đã phát minh ra một hợp chất ngăn ngừa đau tim và đưa ra rất nhiều bảng biểu miêu tả quy mô thị trường, kế hoạch kinh doanh, sơ đồ tổ chức... Các chủ ngân hàng sẽ gật đầu một cách lịch sự, nhưng thực ra đang phải cố không ngáp dài, trong khi trong đầu thì đang nghĩ về tất cả các công ty khác có vị trí tốt hơn Chemcorp trên thị trường.


Tổng giám đốc của Chemcorp đã chọn cách biến những gì định nói thành một câu chuyện, trong đó bắt đầu bằng một sự việc “kịch tính” - là một người nào đó gần gũi với ông - chẳng hạn, cha ông - qua đời vì một cơn đau tim. Vậy, về bản chất đó là thực tại khách quan, là yếu tố đối kháng mà tổng giám đốc, lúc này là nhân vật trong câu chuyện, sẽ phải vượt qua.


Câu chuyện có thể mở ra theo hướng như thế này: trong thương đau, nhân vật chính nhận ra rằng, nếu đã có một loại thuốc nào đó chữa trị bệnh tim, có lẽ cha ông đã không qua đời. Sau đó, công ty ông khám phá ra rằng, một protein luôn có mặt trong máu ngay trước các cơn đau tim và phát triển một cuộc thí nghiệm giá thành thấp và dễ quản lý để lấy bằng sáng chế. Nhưng giờ đây, công ty đối mặt với một thực tại khó khăn mới, một kịch tính mới: công ty cạn tiền mặt, và đối tác chủ chốt rút vốn để gây dựng công ty riêng. Và Chemcorp phải đấu tranh để kết thúc cuộc chạy đua lấy bằng sáng chế.


Việc tạo ra một loạt các tình huống khó khăn trở ngại khiến cho câu chuyện trở nên vô cùng hồi hộp, khiến các chủ ngân hàng nảy sinh ý tưởng rằng, có thể câu chuyện sẽ không kết thúc có hậu. Đến lúc đó, Tổng giám đốc của Chemcorp tung đòn quyết định: “Chúng tôi đã chiến thắng cuộc đua, chúng tôi đã nhận được bằng sáng chế, chúng tôi sẽ cứu được 25.000 người mỗi năm”. Và thế là các ông chủ ngân hàng chỉ còn biết rút hầu bao ra rót vốn cho Chemcorp.

Để có thể nảy ra trong đầu một câu chuyện như vậy, người kể cần phải đặt ra một số câu hỏi nhất định cho mình. Trước hết, nhân vật của tôi muốn làm gì để phục hồi sự cân bằng trong cuộc sống? Mong muốn là mạch máu cả một câu chuyện. Mong muốn không phải là một danh sách mua sắm mà là yêu cầu cốt lõi mà nếu được thỏa mãn, nó sẽ ngừng câu chuyện lại trong tiến trình của nó.


Câu hỏi kế tiếp là: Điều gì ngăn nhân vật chính đạt được mong muốn của họ? Các lực lượng nào đó? Nghi ngờ? Sợ hãi? Bối rối? Xung đột cá nhân với bạn bè, gia đình, người yêu? Các xung đột xã hội nảy sinh trong các thể chế trong xã hội? Xung đột về vật chất? Các lực lượng thiên nhiên? Bệnh tật gây chết người? Không đủ thời gian thực hiện công việc? Chiếc ô tô chết tiệt không khởi động?


Những sự đối kháng đó có thể đến từ con người, xã hội, thời gian, không gian, và mọi đối tượng trong đó, hay bất kỳ sự kết hợp nào của các lực lượng này trong cùng một thời điểm. Sau đó, nhân vật chính sẽ phải quyết định ra sao để đạt được mong muốn của họ trong bối cảnh phải đương đầu với những lực lượng đối kháng đó? Chính câu trả lời cho các câu hỏi mà những người kể chuyện đặt ra sẽ bộc lộ sự thật về tính cách của họ, bởi trái tim của con người luôn được thể hiện qua cách họ lựa chọn khi đối mặt với áp lực khó khăn.


Cuối cùng, người kể chuyện cần quay về với các sự kiện họ tạo ra và tự hỏi: Mình có tin điều này không? Nó có quá cường điệu không? Đây có phải là lời kể chân thực không, cho dù trời có sụp xuống?

Tất nhiên, một câu chuyện hay luôn cần được hậu thuẫn bởi một nền tảng sự thật vững chắc, về ước vọng của người lãnh đạo, về thực lực của công ty, để đảm bảo người nghe bị thuyết phục hoàn toàn cả về lý trí và tình cảm.

Theo TBKTSG

Xu hướng marketing qua mạng xã hội

Các công ty lớn như Dell, Starbucks hay Comcast đã tận dụng rất tốt Twitter để quảng bá sản phẩm và giải đáp thắc mắc khách hàng. Nhưng hiện nay, trên các dịch vụ tiểu blog miễn phí, có thể thấy rằng số lượng các doạnh nghiệp nhỏ đã vượt trội so với các doanh nghiệp lớn. Và xét trên nhiều phương diện, Twitter là công cụ rất hữu ích cho họ.


Mới bán bánh kem trứng ở Sanfrancisco được ba tuần mà cửa hàng của ông Curtis Kimball đã được nhiều khách hàng lui tới. Hầu hết họ đều biết đến qua Twitter.

Với ông, sức mạnh của marketing trực tuyến thật kì diệu. Khi đăng ký tài khoản trên Twitter, ông chưa thực sự hiểu hết mục đích. Nhưng giờ đây, trang Twitter của ông lại đang thu hút hơn 5.400 người truy cập để xem chiếc xe hàng lưu động của ông đang ở đâu và thực đơn có được bổ sung hương vị mới nào hay không.

Ông nói: “Phải nói rằng tôi đã có một ý tưởng và một chiến lược không tồi. Nhưng chính Twitter mới đóng vai trò quan trọng trong thành công của tôi”. Ông Kimball cũng vừa mới từ bỏ nghề thợ mộc của mình để chuyển hẳn sang bán bánh kem trứng.

Các công ty lớn như Dell, Starbucks hay Comcast đã tận dụng rất tốt Twitter để quảng bá sản phẩm và giải đáp thắc mắc khách hàng. Nhưng hiện nay, trên các dịch vụ tiểu blog miễn phí, có thể thấy rằng số lượng các doạnh nghiệp nhỏ đã vượt trội so với các doanh nghiệp lớn. Và xét trên nhiều phương diện, Twitter là công cụ rất hữu ích cho họ.

Với các cửa hàng gia đình không có ngân sách cho việc quảng cáo thì Twitter chính là phương thức marketing duy nhất. Việc tạo và cập nhật cho một tài khoản Twitter đơn giản hơn nhiều so với lập một trang web. Và những người buôn bán nhỏ đa phần làm việc ở quầy tính tiền, chứ không phải là trong một văn phòng với bộ phận marketing riêng, nên sự thân thiện của Twitter là rất phù hợp đối với họ.

Ông Greg Sterling - chuyên gia phân tích những ảnh hưởng của Internet lên việc mua sắm và các doanh nghiệp địa phương nhận định: “Chúng tôi nghĩ những công cụ truyền thông xã hội này là mảnh đất cho các công ty lớn như Coca - Cola hay Mc’Donald. Nhưng rất nhiều những doanh nghiệp siêu nhỏ lại đang hướng tới sử dụng chúng vì chúng thân thiện, miễn phí và vô cùng đơn giản”.

Các doanh nghiệp nhỏ có được hơn một nửa số khách hàng của mình chủ yếu nhờ truyền miệng, và Twitter là một minh chứng cho điều đó. Ông Shamus Booth, đồng sở hữu cửa hàng sushi Umi ở Sanfrancisco, cho biết thỉnh thoảng cửa hàng lại có thêm 5 khách mới mỗi đêm do họ đọc thông tin trên Twitter. Ông Booth cập nhật thông tin về các loại cá tươi mỗi tối, và lần gần đây nhất ông đã viết: “Món O-Toro (một giống cá ngừ lớn) tối nay là một trong số những món cá ngừ bổ dưỡng nhất mà tôi từng được ăn”. Ông cũng thông báo sẽ phục vụ miễn phí món salad tảo biển cho tất cả những ai nói rằng họ biết đến chỗ này qua Twitter.

Với Cynthia Sutton-Stolle, đồng sở hữu cửa hàng bán đồ bạc cổ ở Columbus, bang Texas, Twitter là cách để cô tìm kiếm các nhà cung cấp và khách hàng trên khắp đất nước. Kể từ khi gia nhập Twitter tháng hai vừa rồi, cô đã liên hệ được với những người chuyên sản xuất đèn và nến để đặt làm cho cửa hàng của mình, nhờ đó cô đã kiếm được hàng nghìn USD từ các khách hàng bên ngoài Columbus.

“Chúng tôi thậm chí không có website và cũng chẳng có ý định kinh doanh qua mạng. Và Twitter là một công cụ thực sự hữu ích vì chúng tôi được kết nối với cả nước thay vì chỉ bó hẹp trong một cửa hàng tại một thị trấn nhỏ”, cô nói.

Ông Scott Seaman ở Blowing Rock, North Carolina cũng sử dụng Twitter để mở rộng nguồn khách hàng ra ngoài thị trấn chỉ có 1.500 dân của mình. Ông Seaman là người đồng sở hữu cửa hàng Christopher’s Wine and Cheese và cũng có riêng một khách sạn trong thị trấn. Ông đã sử dụng TweetDeck – một ứng dụng cho phép mọi người quản lý các tin nhắn của mình trên Twitter để kể với mọi người về thị trấn của mình hoặc về những ngọn núi gần đó. Một trong số những người ông gặp trên Twitter đã đặt một phòng ở nhà nghỉ của ông và một phụ nữ ở Dallas đã đặt rượu sake ở hàng ông.

Càng ngày càng có nhiều người truy cập trang Twitter của ông, mặc dù ông ít khi cập nhật thông tin về cửa hàng mình. Ông khuyên mọi người thay vì chỉ mải mê marketing đến các khách hàng, hãy cố gắng là một cửa hàng như thế ngoài đời thực. “Hãy là một người chủ hiệu mà tất cả mọi người đều biết tên”, ông chia sẻ.

Và kể cả khi không có được khách hàng qua Twitter thì dịch vụ này cũng rất hữu ích đối với những người mới khởi nghiệp như cô Becky McCray, chủ cửa hàng rượu và trại gia súc ở Oklahoma. Cô cũng sở hữu một blog cá nhân có tên Small Biz Survival.

Ở những nơi dân số chỉ có 5.000 người như thị trấn của cô, những người chủ doanh nghiệp nhỏ luôn cảm thấy như bị cô lập. Nhưng ở trên Twitter, cô có thể học được rất nhiều mẹo về thuế của một kế toán viên, những bí kíp marketing của một chuyên gia tư vấn đến từ Tennessee hay kinh nghiệm khởi nghiệp từ những nhà sáng lập của một vài công ty công nghệ.

Anamitra Banerji, người chịu trách nhiệm các sản phẩm thương mại của Twitter, nói rằng khi anh rời Yahoo để đến đây vào tháng 3 vừa rồi: “Tôi đã nghĩ rằng nơi này chỉ dành cho các doanh nghiệp lớn. Nhưng thật ngạc nhiên là càng ngày tôi càng thấy ở đây có đủ mọi loại hình kinh doanh”.

Twitter vẫn đang là dịch vụ miễn phí, và đang tập trung hướng dẫn các doanh nghiệp cách tham gia và sử dụng sao cho hiệu quả, công ty cũng dự định sẽ đưa ra các bản nghiên cứu tình huống. Anh Baneji cũng đang phát triển các sản phẩm mà Twitter có thể bán nó cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, bao gồm cả tính năng xác thực tài khoản doanh nghiệp và phân tích lượng truy cập vào trang Twitter của họ.

Theo anh Baneji, chủ các doanh nghiệp nhỏ ưa chuộng Twitter vì họ có thể trao đổi trực tiếp với khách hàng mà không cần phải gặp mặt như trước đây. “Chúng ta có thể thấy rằng khoảng cách giữa doanh nghiệp và khách hàng đang ngày càng được thu hẹp lại”, anh nói.

Theo Vnexpress.net

“Bí kíp” lập hệ thống phân phối

Có thể ví hệ thống phân phối giống như những tiền đồn giữ vai trò quyết định trên con đường chinh phục thị trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, muốn xây dựng một mạng lưới tiền đồn mạnh thì nhất thiết phải có phương pháp, vừa mang tính khoa học, vừa đòi hỏi cả một nghệ thuật khéo léo và sáng tạo.



Dưới đây là những kinh nghiệm mà một trưởng phòng đào tạo mạng lưới bán lẻ đang làm việc cho một công ty nước ngoài hàng đầu về ngành hàng tiêu dùng tại Việt Nam đã chia sẻ.

Bốn bước cơ bản

Các công ty nước ngoài khi muốn thâm nhập một thị trường nào đó, thông thường họ đều trải qua bốn bước cơ bản như sau:

Bước đầu tiên là điều tra và nghiên cứu thị trường, trong đó đặc biệt phải là xác định cho được đặc điểm, tiềm năng của thị trường muốn chinh phục. Có vẻ như khâu này các doanh nghiệp trong nước thường bỏ qua hoặc làm sơ sài do quá chủ quan hoặc thiếu kỹ năng thực hiện. Có doanh nghiệp tiếp cận bằng cách đến thị trường muốn thâm nhập tìm xem có bao nhiêu nhà phân phối và đưa hàng cho các nhà phân phối ấy là xong.

Trong khi các công ty nước ngoài như Unilever, Nestlé, P&G, Pepsi, Coca-Cola đều rất coi trọng việc nghiên cứu thị trường vì đây là khâu đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tiếp cận thị trường. Có thể công ty có sản phẩm tốt, công tác tiếp thị tốt nhưng xác định tiềm năng sai dẫn đến kế hoạch bao phủ sai thì sẽ thất bại.

Ví dụ, muốn chinh phục thị trường ở Bến Tre thì phải xác định được trị giá thị trường này là bao nhiêu vì có xác định được bao nhiêu thì mới đưa ra được kế hoạch, nhân sự, kinh phí, thời gian… tương ứng với quy mô thị trường. Nếu xác định sai, chẳng hạn trị giá thị trường 100 tỉ đồng mà xác định chỉ có 20 tỉ, sau khi đầu tư xong mới vỡ lẽ, muốn tiếp tục đầu tư nữa thì sẽ mất công sức và thời gian.

Để thiết lập một hệ thống phân phối mất khoảng một hoặc hai năm, tái đầu tư thì phải tốn thêm một hay hai năm nữa. Hoặc, ngược lại cũng tốn kém, lãng phí không kém nếu xác định tiềm năng thị trường cao hơn trị giá thực của nó, chẳng hạn trị giá chỉ có 20 tỉ mà xác định lên tới 100 tỉ.

Như vậy, thay vì lẽ ra chỉ tuyển năm nhân viên ta lại tuyển tới 25 nhân viên, lẽ ra chỉ bỏ ra khoản kinh phí tương ứng với quy mô thị trường giá 20 tỉ ta lại phải “oan uổng” bỏ ra khoản kinh phí nhiều gấp 5 lần so với nhu cầu cần thiết…

Việc xác định tiềm năng thị trường là cả một nghệ thuật, vì vậy nên thuê các công ty nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, kết quả điều tra của họ cũng chỉ đáp ứng được phần nào, còn lại phải do chính doanh nghiệp làm và phải luôn cập nhật tình hình biến động của thị trường. Bằng cách đó, trước khi có kế hoạch bao phủ, có công ty đã nắm được thị trường một cách chi tiết đến mức biết được doanh số của từng cửa hàng tại khu vực muốn tiếp cận là bao nhiêu.

Bước tiếp theo là lựa chọn phương pháp tiếp cận thị trường. Nếu thị trường lớn thì có thể thiết lập hệ thống riêng do công ty quản lý, nhỏ thì có thể dùng kênh phân phối bán lẻ tự nhiên hoặc mượn ngay kênh phân phối của đối thủ. Nói chung, có bốn loại thị trường cơ bản (nếu chia nhỏ thì có tám loại) và ứng với mỗi thị trường sẽ có một phương pháp tiếp cận riêng.

Ví dụ, cách tiếp cận thị trường ở Cần Giờ chắc chắn không thể giống với cách tiếp cận như ở trung tâm TPHCM được. Cái này còn liên quan đến cả vấn đề chi phí đầu tư. Thông thường, chi phí cho hệ thống phân phối giới hạn trong phạm vi 10% trên tổng trị giá thị trường (tiềm năng), trong đó chi phí chuyên chở chiếm 3-4%. Như vậy, khi tiếp cận thị trường ở Cần Giờ, doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc đầu tư cho phương tiện vận tải nào để vận chuyển hàng hóa đến đó. Tất cả những vấn đề này đều phải được xem xét thấu đáo để có một phương pháp tiếp cận phù hợp, hiệu quả.

Tuy nhiên, xin lưu ý phương pháp tiếp cận thị trường không bao giờ có một mẫu số chung cho tất cả mà phải luôn luôn sáng tạo. Thí dụ, hình ảnh chị phụ nữ với thùng hàng trên chiếc xe đạp len lỏi đưa hàng phục vụ người tiêu dùng ở các cù lao miền Tây là một sáng tạo của Unilever trong việc chinh phục thị trường ở đây. Trong khi đó, ở TPHCM công ty lại có cách tiếp cận khác, bằng cách lập ra các đội bán hàng cho từng nhóm nhãn hàng riêng. Ví dụ, đối với nhóm nhãn hàng chăm sóc sắc đẹp như kem dưỡng da, lăn khử mùi… thì đội bán hàng gồm những cô gái đẹp, mặc áo vest và được trang điểm lộng lẫy để thu hút khách.

Bước thứ ba không kém phần quan trọng là quản lý sau khi thiết lập xong hệ thống phân phối. Việc quản lý nhằm mục đích giữ vững và phát huy hiệu quả của các “tiền đồn” theo đúng kế hoạch, ý đồ mà công ty đã đề ra. Tương tự như việc ta thắp lên ngọn lửa nhưng giữ cho ngọn lửa cháy mãi mới khó. Để làm được như vậy, các công ty nước ngoài thường có một nguyên tắc vàng là mở (hệ thống phân phối) đến đâu, giám sát chặt chẽ đến đó, đi từng bước an toàn, đừng chạy nhanh quá.

Trường hợp của Công ty A.H chuyên cung cấp bánh flan là một ví dụ sống động. Cách đây 4-5 năm, A.H có một hệ thống phân phối trải dài từ Cần Thơ đến Hà Nội, hệ thống này được thiết lập chỉ trong vòng sáu tháng, mang lại doanh thu 1 tỉ đồng/tháng. Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn sau thì hệ thống bao phủ của A.H phải rút về gần hết. Bài học xương máu ở đây chính là do hệ thống phân phối phát triển quá nhanh dẫn đến không thể kiểm soát được. May mắn là sau đấy doanh nghiệp đã kịp thời sửa sai. Hiện nay, A.H chỉ phân phối bánh flan duy nhất tại TPHCM mà doanh thu mỗi tháng lên tới 5-7 tỉ đồng. Sản phẩm của họ chiếm thị phần 90% và hầu như không có đối thủ nhờ sở hữu một hệ thống phân phối truyền thống được quản lý tốt.

Tuy nhiên, có một hệ thống phân phối mạnh chưa đủ vì để vận hành hệ thống đó phải có con người. Cho nên bước thứ tư hiển nhiên là phải đầu tư cho bộ máy nhân sự. Một công ty nước ngoài hàng đầu về hàng tiêu dùng tại Việt Nam mỗi năm đều có ngân sách để đào tạo kỹ năng bán hàng cho nhân viên tiếp thị cấp thấp. Công ty hầu như không tiếc tiền cho việc ấy vì họ hiểu rằng hệ thống phân phối được vận hành trôi chảy hay kém hiệu quả là hoàn toàn phụ thuộc vào con người.

Với 5.000-6.000 nhân viên bán hàng, ngân sách chi cho đào tạo không phải là nhỏ. Đó là chưa kể chi phí đầu tư để đào tạo cho các cấp quản lý. Ví dụ, mỗi năm chi phí đào tạo dành cho một “tướng nằm vùng” (supervisor) cấp địa bàn huyện khoảng 1.000 đô la. Họ được nâng cấp, cập nhật kiến thức liên tục bởi một ban 10 người chuyên phục vụ việc đào tạo.

Hỗ trợ bán hàng

Ngoài bốn bước căn bản nói trên, các công ty nước ngoài cũng rất coi trọng các hoạt động hỗ trợ bán hàng (trade support) nhằm tăng sức mạnh cho hệ thống phân phối. Để hỗ trợ bán hàng ở các vùng nông thôn, một công ty nước ngoài chuyên về hàng tiêu dùng tại Việt Nam lập hẳn một bộ phận phục vụ với 30 chiếc xe tải và được quản lý bằng hệ thống định vị toàn cầu.

Các chương trình hỗ trợ bán hàng của họ được thiết kế hết sức đa dạng, sáng tạo. Tùy theo tập quán, đặc điểm văn hóa mua hàng của từng vùng mà có một chương trình phù hợp. Ví dụ, ở một số vùng thuộc miền Bắc người dân đi chợ phiên giống như đi lễ hội. Như vậy, chương trình hỗ trợ bán hàng ở đây nên có cái gì đó phù hợp với lễ hội và tất nhiên không thể giống như ở TPHCM hay ở các tỉnh miền Tây được.

Một lần nọ công ty nhận được thông tin tình hình bán hàng ở một chợ tại cửa khẩu miền Tây rất kém, hàng tồn khá nhiều. Đội hỗ trợ bán hàng được điều động đến ngay trước cửa chợ và tổ chức cho người mua ném phi tiêu, ném trúng thì được nhận gấp đôi hàng. Kết quả không ngờ là chỉ sau một buổi hỗ trợ, hàng tồn ở chợ gần như được bán sạch. Nói như vậy để thấy rằng hoạt động hỗ trợ bán hàng đóng một vai trò hết sức đáng kể.

Ví dụ như sản phẩm nước tẩy bồn cầu Vim Sunlight của Unilever tưởng bán nhiều ở các đô thị nhưng thực tế lại bán đắt hơn ở các vùng gần nông thôn chính là nhờ các hoạt động hỗ trợ bán hàng. Tương tự như vậy, nhờ những hoạt động hỗ trợ bán hàng âm thầm, trường kỳ mà sản phẩm bột nêm Knorr bán rất chạy ở Cà Mau, Hà Giang.

Với thế mạnh am hiểu nền văn hóa của mình, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng tổ chức những hoạt động hỗ trợ bán hàng để có thể thành công như thế!

Theo TBKTSG

Bí quyết marketing dịch vụ

Hiện nay, trong vòng một tuần lễ, gần như phần lớn người tiêu dùng tại các thành phố lớn ngày nay không thể không sử dụng ít nhất là một dịch vụ từ các công ty khác nhau. Cho dù ghé qua tiệm rửa xe, sơn sửa văn phòng hay sửa chữa chiếc máy giặt, họ đều cần đến một dịch vụ từ các nhà cung cấp. Việc duy trì những mối quan hệ khách hàng mạnh mẽ được xem là chìa khoá tạo dựng thành công của các nhà cung cấp này.



Khi sử dụng một dịch vụ nào đó, đa phần người tiêu dùng cảm thấy họ sẽ rủi ro hơn so với việc mua một sản phẩm hữu hình. Điều này là tự nhiên khi mà sản phẩm là hữu hình trong khi dịch vụ lại vô hình. Tâm lý chung là khách hàng không biết hết được mình sẽ nhận được những gì từ một dịch vụ cho đến khi họ bỏ tiền ra và thử nghiệm dịch vụ đó.

Trong hoạt động marketing nói chung, marketing dịch vụ làm một khía cạnh khá khác biệt so với marketing các sản phẩm thông thường. Hai chữ "dịch vụ" hàm ý tới những mối quan hệ giao tiếp mang tính cá nhân hơn. Hiểu theo nghĩa nào đó, marketing dịch vụ chính là marketing những cam kết, hứa hẹn của doanh nghiệp sẽ cung cấp cho người tiêu dùng một vài lợi ích nào đó.

Và nếu công ty của bạn đang cung cấp những sản phẩm dịch vụ vô hình, một chiến dịch marketing với những yếu tố thích hợp nhằm xây dựng các mối quan hệ bền vững là vô cùng thiết yếu cho thành công.

1) Để các khách hàng biết rõ bạn

Những mối quan hệ tốt được xây dựng trên cơ sở lòng tin. Vì vậy, việc các khách hàng mong muốn biết nhiều nhất có thể về công ty bạ,n về những con người bên trọng đó là điều gì đó hết sức tự nhiên.

Đặc biệt, người tiêu dùng nữ giới thường tìm kiếm những thông tin sâu hơn khi quyết định lựa chọn một công ty hay một dịch vụ, và số đông khách hàng cả nam lẫn nữ thường tiến hành tìm hiểu qua mạng internet trước khi ra quyết định sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp nào đó. Xây dựng trang web công ty là cách thức thông minh và hiệu quả để truyền tải những thông tin sâu rộng về hoạt động dịch vụ của bạn.

Bạn có thể dễ dàng tìm kiếm những nhà cung cấp website với nhiều giao diện bắt mắt và dễ sử dụng. Trên trang chủ, hãy thể hiện các lợi ích của dịch vụ bạn cung cấp không kém gì một catalog in ấn nghiêm chỉnh của công ty bạn. Hãy đưa lên trang web các câu truyện về công ty, các hình ảnh và tiểu sử đội ngũ nhân viên,.... Và cho thấy công ty của bạn có thể cung cấp đúng những gì đã cam kết như thế nào qua các nhận xét của khách hàng hiện tại, các bài báo,....

2) Cạnh tranh dựa trên giá trị

Điều gì sẽ khiến các khách hàng lựa chọn công ty bạn hay các đối thủ cạnh tranh của bạn? Hầu hết sẽ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ nào đưa ra được những giá trị lớn nhất cho đồng tiền của họ.

Trong nhiều thị trường cạnh tranh, không có sự khác biệt về giá cả giữa những đại gia lớn nhất. Vì vậy, cách thức tốt nhất để dành phần thắng kinh doanh không phải cắt giảm giá cả mà chìa khoá nằm ở việc bổ sung thêm các sản phẩm hay dịch vụ giúp nâng tầm chào mời của bạn, khiến các chào mời trở nên hấp dẫn không thể chối từ được. Đó được gọi là "bọc gói" (bundling).

Hãy dành thời gian để phát triển các gói dịch vụ của bạn mà bạn biết chắc rằng sẽ lôi cuốn các khách hàng. Bạn có thể thử nghiệm nhiều lời chào khác nhau cho đến khi thấy được những gì hiệu quả nhất, sau đó định kỳ sửa đổi chúng để các ý tưởng của bạn không ngừng tươi mới.

3) Thu hút khách hàng bằng những khích lệ

Những khách hàng nào có được các trải nghiệm tích cực với dịch vụ của công ty bạn trong quá khứ sẽ hạnh phúc quay trở lại. Nhưng việc cám dỗ các khách hàng mới đòi hỏi một chào mời đặc biệt hơn.

Các doanh nghiệp cung cấp những dịch nhà cửa như sơn sửa, dọn dẹp thảm, sửa chữa điều hoà,...có thể có được nhiều lợi ích bằng việc gửi các phiếu giảm giá, khuyến mại hay miễn phí cho những dịch vụ khác có liên quan. Các phiếu này có thể gửi tới khách hàng trong từng lần cung cấp dịch vụ hoặc gửi đồng loạt qua bưu điện.

Vì những kết quả dài hạn, bạn cần tạo dựng những chào mời đặc biệt sẽ khích lệ các khách hàng mới để có được nhiều hơn những lần sử dụng dịch vụ khác nhau từ khách hàng.

4) Giữ liên lạc với khách hàng

Việc giữ chân một khách hàng cũ ít tốn kém hơn nhiều so với việc tìm kiếm được một khách hàng mới, vì vậy việc duy trì một chiến dịch để kết nối liên tục với các khách hàng hiện tại là hết sức cần thiết.

Trên thực tế, nếu bạn không liên lạc với các khách hàng trong cơ sở dữ liệu của bạn ít nhất một lần trong bốn đến sáu tuần, bạn đang lỡ mất cơ hội tăng trưởng kinh doanh.

Hãy sử dụng phối kết hợp các chiến thuật bán hàng và marketing để giữ liên lạc với các khách hàng, chẳng như các cuộc gọi bán hàng xen kẽ với những email hay thư bưu điện quảng cáo. Thay vì gửi đi duy nhất một giao tiếp trong một chào hàng nào đó, hãy rải rác các giao tiếp của bạn với khách hàng trong các email định kỳ hay những giao tiếp khác miễn là các thông tin giá trị và thích hợp.

Bạn cũng nên có thói quen định kỳ sử dụng các giao tiếp tiếp thị để đề nghị khách hàng giới thiệu bạn với người khác. Ví dụ, bạn có thể gửi đi các câu truyện thành công và đề nghị người nhận gửi chuyển tiếp nó tới bạn bè và gia đình của họ - những người cũng thích có được các kết quả tương tự.

Bằng việc cung cấp các thông tin sâu rộng về công ty bạn cho các khách hàng mới và những chào mời lẫn giao tiếp không ngừng tới những khách hàng hiện tại, bạn sẽ tạo ra một chiến dịch tương tác giúp xây dựng thành công những mối quan hệ khách hàng vững bền.

Theo Bwportal

Related Posts with Thumbnails

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More